những bài bào chữa hay nhất của luật sư
Theo đó, bài bào chữa của luật sư thường lập luận bảo vệ quyền cho thân chủ theo 4 trường hợp sau đây: Không đồng ý với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố theo bản cáo trạng
Khái niệm Người bào chữa được ghi nhận tại điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 như sau : "1. Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền
Bài bào chữa hay còn gọi là bản luận cứ được luật sư sử dụng để biện hộ cho hành vi của bị cáo là thân chủ của luật sư trước Tòa nhằm bảo vệ tốt nhất quyền lợi của thân chủ.Bài viết dưới đây sẽ trình bày nội dung cơ bản trong bài bào chữa cho thân chủ tại phiên tòa vụ án hình sự qua đó
(LSVN) - Tại phiên tòa, bài bào chữa, bảo vệ của Luật sư chỉ cần hướng đến sự hài lòng của thân chủ, sự đồng tình, ghi nhận của Hội đồng xét xử là đủ, hay hướng đến những chủ thể nào?. Cùng tìm hiểu và làm rõ nội dung này góp phần hoàn thiện kỹ năng tranh tụng của Luật sư, tạo lập và khẳng
Thứ tư: ngày 15/03/2001 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau: Khi vận dụng khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự về tội " Mua bán trái phép chất ma túy " ( khoản 4 Điều 251 Bộ Luật hình sự năm năm ngoái ) cần quan tâm : Trong trường hợp không có diễn biến tăng nặng và không có diễn biến giảm nhẹ
mimpi kedatangan tamu laki laki 2 orang. Luật sư có cách mở đầu bài bào chữa khá đa dạng , đặc biệt với những vụ án gây sự chú ý lớn của dư luận . Tuy nhiên, nhìn chung phần mở đầu bản luận cứ bào chữa nên ngắn gọn , rõ ràng , đầy đủ các thông tin cần thiết , không nên vòng vo , dài dòng hoặc quá văn hoa Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, thì Luật sư là người tham gia tố tụng trong một vụ án hình sự với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. I/- BÀI BÀO CHỮA, BÀI BẢO VỆ CỦA LUẬT SƯ. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, thì Luật sư là người tham gia tố tụng trong một vụ án hình sự với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự. Hoạt động tố tụng hình sự là một hoạt động luật định, được diễn ra theo một trình tự thủ tục nhất định, từ giai đoạn trước đến giai đoạn sau, từ giai đoạn đầu đến giai đoạn cuối, theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Khi tham gia vào quan hệ pháp luật nói trên, dù là ngay từ khi nó mới vừa phát sinh hoặc là vào một giai đoạn tố tụng cụ thể nào đó, thì những người tiến hành tố tụng và người người tham gia tố tụng cũng đều phải thực hiện những công việc tố tụng theo một trình tự nhất định, đúng với quyđịnh của pháp luật về tố tụng. Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành thì Luật sư có thể tham gia tố tụng ở vào bất kỳ giai đoạn tố tụng nào của vụ án, tùy thuộc vào yêu cầu của thân chủ của mình hoặc cũng có thể từ yêu cầu của chính các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng, việc tham gia tố tụng của Luật sư vào giai đoạn trước khi hoạt động xét xử được tiến hành, sẽ là hết sức quan trọng và có ý nghĩa rất to lớn đối với hoạt động hành nghề của Luật sư cũng như đối với mối quan hệ dịch vụ pháp lý mà Luật sư đã xác lập với thân chủ của mình. Có thể khẳng định như vậy là vì những lý do sau đây Thứ nhất Đây là giai đoạn tố tụng mà lần đầu tiên Luật sư được công khai phát biểu trình bày quan điểm của mình về vụ án, về việc VKS truy tố bị cáo, về tội danh và hình phạt mà VKS đề nghị áp dụng cho bị cáo, về hành vi phạm tội và hậu quả mà hành vi phạm tội gây ra cho người bị hại cũng như cho phía người bị hại, đồng thời nêu lên những quan điểm, những luận cứ, những tình tiết quan trọngcủa vụ án, để đối đáp tranh luận, nhằm bác bỏ hoặc ủng hộ quan điểm buộc tội của VKS đối với bị cáo, để đề xuất thay đổi tội danh, làm giảm nhẹ TNHS, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo hoặc để buộc bị cáo phải bồi thường TNDS và khắc phục hậu quả mà bị cáo đã gây ra đối với bị hại hoặc phía người bị hại. Nói một cách chung nhất là Luật sư phải làm sao để mang lại kết quả tốt nhất cho thân chủ của mình là bị cáo hoặc là người bị hại trong vụ án hình sự. Thứ hai Trong tất cả các giai đoạn tố tụng, thì việc đưa ra xét xử của Tòa án chính là giai đoạn có sự xuất hiện đầy đủ nhất của những người người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong cùng một vụ án hình sự. Ngoài ra, trong nhiều phiên tòa có tiếng vang và dư luận xã hội rộng lớn, có thể sẽ có đông đảo quần chúng nhân dân đến tham dự để theo dỏi trực tiếp việc xét xử vụ án, các cơ quan truyền thông báo chí cũng có thể đến để đưa tin. Vì vậy, hoạt động mang tính nghề nghiệp của Luật sư trong giai đoạn này là hết sức quan sư sẽ có cơ hội để thể hiện kỹ năng hành nghề của mình, nếu thành công có thể sẽ gây tiếng vang lớn trong xã hội làm tăng uy tín nghề nghiệp của Luật sư đồng thời có tác động tích cực đến hoạt động hành nghề của Luật sư trong việc thực hiện các dịch vụ pháp lý với thân chủ của Luật sư sau này. Thứ ba Kết quả của hoạt động xét xử của Tòa án sẽ là một bản án mà Hội đồng xét xử thay mặt và nhândanh Nhà Nước tuyên án đối với thân chủ của Luật sư. Không phải chỉ có bản án tuyên thân chủ của Luật sư vô tội; không phải chỉ có bản án tuyên thânchủ của Luật sư có tội nhẹ hơn, TNHS ít hơn, hình phạt nhẹ hơn so với đề nghị truy tố của VKS; hoặc bản án tuyên bị cáo có tội đúng với tội danh và hình phạt, đồng thời buộc bị cáo phải bồi thường TNDS một cách thích đáng để khắc phục hậu quả cho người bị hại, mới được xem là thành công của Luật sư và là niềm hạnh phúc của thân chủ của Luật sư. Ngay như một bản án mà Tòa đã tuyên, có tính bất lợi đối với thân chủ của Luật sư, đôi khi Luật sưcũng có thể nhận được sự cảm thông chia sẻ, thậm chí sự mang ơn từ chính thân chủ của mình. Bởivì Họ đã cảm nhận được năng lực thực sự của Luật sư, về công sức mà Luật sư đã làm và về trách nhiệm nghề nghiệp mà Luật sư đã thể hiện đối với những yêu cầu của Họ. Sự đánh giá tốt của khách hàng đối với Luật sư bao giờ cũng là một chứng cứ hết sức quan trọng mang tính đánh giá nghề nghiệp và năng lực của Luật sư khi tham gia hoạt động tố tụng trong mộtvụ án hình sự. Hơn ai hết, Luật sư phải là người hiểu rõ việc tham gia vào giai đoạn xét xử tại tòa án là một hoạt động tố tụng hết sức quan trọng đối với việc hành nghề của mình và đối với chính hợp đồng dịchvụ pháp lý mà Luật sư đã xác lập với khách hàng của mình. Chính vì tính chất quan trọng như vậy, Luật sư cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho giai đoạn xét xử, mà quan trọng nhất, có thể nói là việc chuẩn bị bài bào chữa hoặc là bài bảo vệ cho thân chủcủa nào là bài bào chữa, bài bảo vệ? Bài bào chữa Là văn bản viết của Luật sư trong đó nêu quan điểm của Luật sư về vụ án, về hoạt động tố tụng mà các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã tiến hành, về quan điểm truy tố của VKS đối với thân chủ của Luật sư là bị cáo trong vụ án, về tội danh, về khung hình phạt mà VKS đề nghị, đồng thời đưa ra những căn cứ để bác bỏ toàn bộ việc truy tố của VKS, hoặc để thay đổi sang tội danh khác có TNHS và hình phạt nhẹ hơn, để không phải chịu hoặc làm giảm nhẹ TNDS đối với bị cáo. Bài bào chữa sẽ được Luật sư trình bày bằng cách đọc nguyên văn hoặc làm dàn ý để từ đó làm căn cứ phát biểu ngay trong phần tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe vị đại diện VKS đọc bản luận tội. Bài bảo vệ Cũng là một văn bản viết của Luật sư, tuy nhiên do thân chủ của Luật sư trong trường hợp này là người bị hại hoặc là phía người bị hại trong trường hợp người bị hại chết, là nguyên đơn dân sự, là bị đơn dân sự, là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự. Họ là những nạn nhân của hành vi phạm tội của bị cáo, là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án, là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra trong vụ án, cho nên nội dung và mục đích của bài bảo vệ ứng với từng đối tượng tham gia tố tụng cụ thể sẽ là rất khác so với bài bào chữa cho bị cáo. Trong nội dung bài bảo vệ, Luật sư cũng nêu quan điểm của mình về vụ án, về hoạt động tố tụng mà các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã tiến hành, về quan điểm truy tố của VKS đối với bị cáo trong vụ án, về tội danh, về khung hình phạt mà VKS đã đề nghị đối với bị cáo. Thông thường quan điểm của Luật sư là đồng tình với việc truy tố bị cáo của VKS. Tuy nhiên trong một số trường hợp, quan điểm của Luật sư có thể sẽ là không đồng tình với việc truy tố của VKS vì đã bỏ sót tội phạm và hình phạt. Thể hiện tất cả những vấn đề vừa nêu trên trong bài bảo vệ, mục đích của Luật sư là muốn khẳng định bị cáo đúng là người phạm tội, giữa hành vi phạm tội của bị cáo và kết quả dẫn đến sự mất mát, thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, bị cáo là người có lỗi cho nên bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường TNDS và khắc phục những hậu quả mà mình đã gây ra. Trách nhiệm hình sự mà người phạm tội phải gánh chịu là một việc đương nhiên theo quy định của pháp luật. Không một ai có thể yêu cầu hoặc đòi hỏi về hình thức, mức độ, biện pháp chế tài về hình sự đối với người phạm tội ngoại trừ Viện Kiểm Sát Nhân Dân. Trách nhiệm dân sự của bị cáo trong việc bồi thường tổn thất về vật chất cũng như tinh thần cho khách hàng của Luật sư, mới chính là mục đích mà Luật sư bảo vệ cho người bị hại và phía người bị hại hướng giống như bài bào chữa, bài bảo vệ sẽ được Luật sư trình bày bằng cách đọc nguyên văn hoặc làm dàn ý để từ đó làm căn cứ phát biểu ngay trong phần tranh luận tại phiên tòa, sau khi vị đại diện VKS đọc bản luận tội. II/ BÀI BÀO CHỮA, BÀI BẢO VỆ LÀ MỘT TÀI LIỆU QUAN TRỌNG KẾT TINH CÔNG SỨC VÀ KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ. Bài bào chữa, bài bảo vệ trước hết thể hiện kỹ năng viết của Luật sư. Nhưng để viết được một tài liệu có tính chặt chẽ, ngắn gọn, đầy đủ nội dung, có văn hóa, có trí tuệ, có căn cứ xác đáng và cótính thuyết phục cao như vậy, Luật sư còn phải vận dụng những kỹ năng khác trong hoạt động nghề nghiệp của Luật kỹ năng hành nghề tốt, Luật sư còn phải có một nền tảng kiến thức khoa học về pháp lý vững vàng. Kiến thức về pháp luật có thể giúp cho Luật sư nhìn nhận một vấn đề pháp lý có tính khoa học và có căn cứ, từ đó thể hiện quan điểm của mình, đề xuất những ý kiến pháp lý quan trọng trong bài bào chữa và bài bảo vệ. Nếu không có đạo đức nghề nghiệp, nếu không yêu quý công việc của mình, nếu không thật sự tôn trọng những cam kết mang tính công việc đối với khách hàng, nếu không có tinh thần trách nhiệm cao, thì cũng khó có được một kết quả tốt đẹp cho bài bào chữa, bài bảo vệ của Luật sư. Vì vậy có thể nói rằng Bài bào chữa hay bài bảo vệ của các Luật sư, đều là những tài liệu quan trọng, kết tinh công sức của các luật sư, thể hiện kết quả của một quá trình tích cực nghiên cứu khai thác để tìm ra những tình tiết, chứng cứ cần thiết phục vụ cho nhu cầu mục đích cho việc bào chữa, bảo vệ thân chủ của mình. Trên đây là nội dung trao đổi về tiêu đề bài biết, nếu bạn muốn yêu cầu thêm về vấn đề nội dung bài viết hay còn vướng mắc, chưa rõ hoặc cần hỗ trợ pháp lý khác bạn vui lòng liên hệ Hotline để được giải đáp, hỗ trợ tư vấn kịp thời. Hãy liên hệ Văn Phòng luật của chúng tôi để được giải đáp đầy đủ. Điện thoại 0982808484 – Chat Zalo – Gửi yêu cầu email lienhe Website – Luật sư tư vấn pháp luật, tham gia bảo hộ quyền lợi vụ việc dân sự, Luật sư Dân sự, Luật sư Hình sự , Luật sư Đất đai, Luật sư Hôn nhân, Luật sư Doanh nghiệp, Luật sư Lao động, Tư vấn Sở hữu Trí tuệ……
LSVN - Tại phiên tòa, bài bào chữa, bảo vệ của Luật sư chỉ cần hướng đến sự hài lòng của thân chủ, sự đồng tình, ghi nhận của Hội đồng xét xử là đủ, hay hướng đến những chủ thể nào?. Cùng tìm hiểu và làm rõ nội dung này góp phần hoàn thiện kỹ năng tranh tụng của Luật sư, tạo lập và khẳng định uy tín, vị thế của nghề Luật sư trong xã hội. Ảnh minh họa. Bài phát biểu bào chữa, bảo vệ của Luật sư tại phiên tòa là kết tinh hoạt động nghiệp vụ của Luật sư. Theo quan điểm cá nhân tôi, bài bào chữa, bảo vệ của Luật sư không những được thành viên Hội đồng xét xử HĐXX, Kiểm sát viên, bị can, bị cáo, đương sự và người dân có mặt tại phiên tòa quan tâm, theo dõi đánh giá mà còn nhận được sự quan tâm, theo dõi, phân tích của nhóm chủ thể khác quan tâm không chỉ giới hạn trong phạm vi phiên tòa, giới hạn trong vụ án. Do đó, khi xây dựng, thể hiện bài phát biểu tại phiên tòa, Luật sư cũng cần hướng đến các nhóm chủ đó. Bài phát biểu của Luật sư tại phiên tòa theo tôi cần hướng đến các nhóm chủ thể sau Thứ nhất, bài phát biểu của Luật sư tại phiên tòa hướng đến khách hàng của Luật sư. Công việc của Luật sư là tìm ra các sự kiện pháp lý, đối chiếu quy định của pháp luật, sử dụng kỹ năng nghề nghiệp trên cơ sở nền tảng đạo đức để xử lý các sự kiện pháp lý đó theo hướng có lợi nhất cho khách hàng của mình. Là người bào chữa, đại diện, bảo vệ cho thân chủ, người Luật sư phải truyền đạt mong muốn, nói lên nỗi lòng của thân chủ tại phiên tòa. Luật sư tạo sự đồng cảm, gần gũi, thiết lập mối liên hệ mật thiết giữa Luật sư và khách hàng. Thành viên HĐXX, Kiểm sát viên tại phiên tòa đôi khi chưa thấu hiểu nghề Luật sư. Do vậy, khi Luật sư dành thời gian phát biểu giúp khách hàng bày tỏ mong muốn, giãi bày nỗi lòng của khách hàng tại phiên tòa hay bị HĐXX ngắt lời. Mặt khác, sự hài lòng của khách hàng tại phiên tòa đối với Luật sư không thể được thực hiện bởi việc lợi dụng tâm lý bất an, sự bức xúc hoặc bất mãn của người dân tại phiên tòa. Thứ hai, bài phát biểu của Luật sư tại phiên tòa hướng đến HĐXX. HĐXX giữ quyền tối cao tại phiên tòa, có quyền quyết định việc “Thắng – Thua” của khách hàng. Thành viên HĐXX cũng là con người, với niềm tin nội tâm và chủ kiến trong quá trình giải quyết vụ án. Do đó, đôi khi thành viên HĐXX cho rằng nội dung vụ án đã rõ, hồ sơ, tài liệu đã đầy đủ, với thói quen “Trọng chứng hơn trọng cung”, HĐXX có xu hướng muốn Luật sư phát biểu ngắn gọn, phát biểu thẳng vào các vấn đề mà HĐXX cho là trọng tâm của vụ án. Nhưng nhận thức của Luật sư và thành viên HĐXX sẽ có sự khác biệt, có những vấn đề Luật sư đánh giá quan trọng, liên quan trực tiếp đến quyền lợi ích của khách hàng nhưng có thể HĐXX cho rằng ít quan trọng hoặc không liên quan đến vụ án. Vì vậy, khi Luật sư trình bày, phân tích sâu để làm rõ nội dung đó có thể bị HĐXX yêu cầu chấm dứt. Đây là một trong những nguyên nhân tạo ra mâu thuẫn, khiếu nại, kiến nghị hiện nay. Tôn trọng, thiện chí, hợp tác, tiết chế, phối hợp là những yêu cầu đặt ra không chỉ với Luật sư mà còn với cả thành viên HĐXX và người tiến hành tố tụng khác trong tiến trình cải cách tư pháp hiện nay. Thứ ba, bài phát biểu của Luật sư tại phiên tòa hướng đến Kiểm sát viên. Mối quan hệ giữa Kiểm sát viên và Luật sư có thể rất khác nhau trong cùng một vụ án, xuất phát từ việc Luật sư bào chữa, bảo vệ cho ai trong vụ án. Ví dụ Kiểm sát viên và Luật sư bảo vệ cho người bị hại trong vụ án hình sự khác so mối quan hệ của Kiểm sát viên và Luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa hoặc quan hệ Luật sư và Kiểm sát viên trong vụ án dân sự. Nhưng cho dù ở mối quan hệ nào Kiểm sát viên đều là người có tiếng nói, vai trò, vị thế góp phần quyết định “Thắng - Thua” của khách hàng của Luật sư vì họ là người tiến hành tố tụng. Mặt khác, tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm có nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư pháp bao gồm cả kiểm sát hoạt động của HĐXX và Luật sư. Tìm kiếm sự đồng thuận bằng chứng cứ, lập luận hợp tình hợp lý, kiên trì theo đuổi vụ việc, “đấu lý để tìm ra chân lý”; tiết chế cái tôi, tìm kiếm sự đồng thuận, tránh sự đối đầu trực diện giữa Luật sư và Kiểm sát viên tại phiên tòa chưa bao giờ làm giảm quyền lợi của khách hàng hoặc làm giảm uy tín nghề Luật sư. Thứ tư, bài phát biểu của Luật sư tại phiên tòa hướng đến chủ thể có quyền lợi ích đối lập quyền lợi ích của khách hàng của Luật sư. Luật sư có trách nhiệm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích của khách hàng. Nhưng điều đó không cho phép người Luật sư bất chấp đạo đức xã hội, quy định của pháp luật để “đổi trắng – thay đen”, vì nghề Luật sư có sứ mệnh bảo vệ công lý, công bằng xã hội. Các cụ ta có câu “Nói phải củ cải cũng nghe”, cùng là một vấn đề người Luật sư lựa chọn cách thức diễn đạt sao cho phù hợp đảm bảo quyền lợi cho khách hàng, đồng thời tránh gây bức xúc, đối đầu giữa các bên. Thay mặt bị cáo gửi lời xin lỗi và sẻ chia của Luật sư trước đau thương của gia đình bị hại, động viên họ giữ bình tĩnh, vững vào công lý trong vụ án giết người của Luật sư trước khi phân tích tình tiết vụ án không làm tăng nặng trách nhiệm của bị cáo. Khơi dậy tinh thần vị tha, hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp của các bên có quyền lợi đối lập trong vụ án. Thứ năm, bài phát biểu của Luật sư tại phiên tòa hướng đến lãnh đạo Cơ quan tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa, HĐXX độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nhưng việc giải quyết vụ án là cả một quá trình, đòi hỏi tuân thủ quy định pháp luật nội dung, tố tụng. Lãnh đạo Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an có thẩm quyền, trách nhiệm quản lý, phân công cán bộ, tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên. Truyền tải nội dung bài phát biểu, diễn biến phiên tòa đến các chủ thể góp phần đảm bảo việc giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, triệt để và đầy đủ. Thứ sáu, bài phát biểu của Luật sư tại phiên tòa hướng đến dư luận xã hội thông qua Cơ quan truyền thông, báo chí và mạng xã hội. Báo chí và Luật sư là người bạn đồng hành vì công lý. Phát biểu, ứng xử của Luật sư tại phiên tòa hiện nay có thể được phản ánh ngay trên báo chí, truyền thông, mạng xã hội mà đôi khi chính người Luật sư cũng không biết, không kiểm soát được. Tranh tụng tại phiên tòa, diễn biến giải quyết vụ án luôn nhận được sự quan tâm của dư luận xã hội. Phối hợp cơ quan truyền thông, báo chí Luật sư cung cấp thông tin cho xã hội, góp phần đấu tranh chống cái ác, lan tỏa tính nhân văn, cao đẹp nghề luật. Luật sư cần trung thực, khách quan, có trách nhiệm khi cũng cấp thông tín cho báo chí, không sử dụng cơ quan truyền thông, báo chí, mạng xã hội để gây sức ép đến cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nhằm đạt được lợi ích không chính đáng cho khách hàng hoặc bản thân. Thứ bảy, bài phát biểu của Luật sư tại phiên tòa hướng đến cơ quan quản lý nhà nước. Hoạt động của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và Luật sư chịu sự quản, giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, Cơ quan tư pháp, Cơ quan Nội chính,... Tháng 9/2021, Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp tỉnh Bắc Giang tổ chức Hội nghị phiên tòa rút kinh nghiệm với chuyên đề “Nâng cao chất lượng điều hành phiên tòa của hội đồng xét xử vụ án hình sự”. Đồng chí Lê Thị Thu Hồng, Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy, Trưởng Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp tỉnh dự và chỉ đạo. Tham dự có Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, lãnh đạo Ban Nội chính Tỉnh ủy, Cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh, Thành viên Ban Chỉ đạo Cải cách Tư pháp tỉnh; Thường trực các Huyện ủy, Thành ủy. Ban tổ chức lựa chọn vụ án "Giết người" và “Cố ý gây thương tích” do TAND tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm. Phiên tòa được theo dõi trực tiếp tại Hội trường xét xử TAND tỉnh, và được truyền hình trực tuyến hội nghị đến 10 điểm cầu đặt tại 10/10 huyện, thành phố của tỉnh, và điểm cầu Ban Nội chính Tỉnh ủy. Tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo, Luật sư bảo vệ cho bị hại đều phát biểu đề nghị HĐXX hoàn trả hồ sơ để điều tra bổ sung, sau 03 ngày xét xử, HĐXX đã tuyên hoàn trả hồ sơ yêu cầu làm rõ 12 nội dung của vụ án. Thứ tám, bài phát biểu của Luật sư tại phiên tòa hướng đến việc hoàn thiện pháp luật, bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Phát biểu của Luật sư tại phiên tòa không chỉ bảo vệ quyền lợi ích cho khách hàng trong vụ án, Luật sư có quyền và trách nhiệm bảo vệ công lý, công bằng xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Cùng việc đưa ra qua điểm, đề xuất để trực tiếp bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng, Luật sư còn kiến nghị hoàn thiện pháp luật; kiến nghị giải quyết các vấn đề chưa được giải quyết trong vụ án; kiến nghị giải quyết những nội dung mới chưa được pháp luật điều chỉnh. Hiện nay, việc thực hiện quyền này chưa được Luật sư chú trọng, và khi Luật sư thực hiện cũng ít được HĐXX chấp nhận, ghi nhận vào bản án. Tháng 9/2021, báo chí phản ánh việc Cơ quan An ninh Điều tra Công an tỉnh Hà Giang đã khởi tố vụ án “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ” trên cơ sở kiến nghị của Luật sư Hoàng Văn Hướng được ghi nhận trong Bản án Hình sự của TAND tỉnh Hà Giang tuyên tháng 10/2019 khi giải quyết một vụ án khác. Phân tích, tìm hiểu, nhận diện đúng, đủ vai trò của các chủ thể có thể sẽ tiếp nhận bài phát biểu của Luật sư tại phiên tòa để từ đó định hướng xây dựng nội dung và cách thức thể hiện bài phát biểu là rất cần thiết. Thông qua đó, người Luật sư chủ động lựa chọn và có ứng xử phù hợp trong từng vụ án; định hình phong cách hành nghề, xây dựng và khẳng định thương hiệu cá nhân Luật sư. Đồng thời, giúp Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, Cơ quan quản lý có đánh giá đa chiều, toàn diện và đầy đủ về bản chất hoạt động Luật sư. Luật sư TRẦN VĂN AN Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Giang Quyền của Luật sư trong hoạt động thi hành án dân sự
Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Theo quy định của pháp luật, Luật sư là một trong số những người được bào thể, khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa có thể là– Luật sư;– Người đại diện của người bị buộc tội;– Bào chữa viên nhân dân;– Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp người sau đây không được bào chữa– Người đã tiến hành tố tụng vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng vụ án đó;– Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;– Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người bị kết án mà chưa được xoá án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều người bị buộc tội trong cùng vụ án nếu quyền và lợi ích của họ không đối lập người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị buộc bào chữa vi phạm pháp luật thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị hủy bỏ việc đăng ký bào chữa, bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ lựa chọn. Trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, người bị tạm giữ có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị bắt, bị tạm giữ phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào thời hạn 24 giờ kể khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị tạm giam thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Trường hợp người bị tạm giam không nêu đích danh người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền đang quản lý người bị tạm giam phải chuyển đơn này cho người đại diện hoặc người thân thích của họ để những người này nhờ người bào hợp người đại diện hoặc người thân thích của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo ngay cho người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để có ý kiến về việc nhờ người bào bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận từ huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương trở lên cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức đăng ký bào chữa, Luật sư xuất trình Thẻ Luật sư kèm theo bản sao có chứng thực và giấy yêu cầu Luật sư của người bị buộc tội hoặc của người đại diện, người thân thích của người bị buộc Luật sư Việt Nam OnlineĐây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email info
Quyền bào chữa là một quyền quan trọng của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự; là phương tiện pháp lý để chủ thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thực hiện quyền bào chữa của người bị buộc tội góp phần bảo đảm công tác điều tra; truy tố, xét xử khách quan, toàn diện, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm. Pháp luật tố tụng hình sự nước ta đã ngày càng mở rộng quyền bào chữa. Quyền này được ghi nhận ngay trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà – Hiến pháp năm 1946; tại Điều 67 Hiến pháp quy định “Người bị cáo được tự bào chữa hoặc nhờ luật sư”. Trước đó, tại Điều 5 Sắc lệnh ngày thiết lập các toà án quân sự quy định “bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho”. Quy định này được thực hiện suốt từ đó cho đến khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988. Trên cơ sở kế thừa các văn bản pháp luật cũ; Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 mở rộng quyền bào chữa cho cả bị can chứ không dừng lại đối với bị cáo Điều 12. Đến Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003; tiếp tục quy định quyền bào chữa tại Điều 11; theo đó bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Tự bào chữa là hình thức bị can, bị cáo tự sử dụng các quyền mà pháp luật cho phép để chứng minh sự vô tội; giảm nhẹ tội hoặc bảo vệ những lợi ích hợp pháp của mình. Nhờ người khác bào chữa là hình thức bị can, bị cáo nhờ người khác bào chữa, bảo vệ cho họ. Khi nhận bào chữa, người bào chữa được sử dụng các biện pháp do luật quy định để bào chữa cho bị can, bị cáo và giúp đỡ các bị can, bị cáo về mặt pháp lí. Hai hình thức này có thể cùng được sử dụng để bào chữa cho bị can; bị cáo trong vụ án. Việc quy định quyền bào chữa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam thể hiện sự dân chủ trong hoạt động tố tụng; góp phần bảo đảm cho điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của bị can, bị cáo. Theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015 Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa. Người bào chữa có thể là Luật sư; Người đại diện của người bị buộc tội; Bào chữa viên nhân dân; Trợ giúp viên pháp lý trong trường hợp người bị buộc tội thuộc đối tượng được trợ giúp pháp lý. Tuy nhiên, thực tế cho thấy 80% Người bào chữa tham gia tố tụng hình sự là Luật sư thuộc các Đoàn luật sư. BÀO CHỮA HÌNH SỰ Thứ nhất, về quyền của Người bào chữa trong tố tụng hình sự. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, thông qua việc thực hiện các quyền, như Gặp, hỏi bị cáo; xem biên bản, quyết định tố tụng liên quan đến bị cáo; Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định, người định giá tài sản; Thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án, liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra, mục đích chuẩn bị cho hoạt động bào chữa tại phiên là những quy định tiền đề cho hoạt động bào chữa. Tại phiên tòa, luật sư thực hiện hoạt động bào chữa trên cơ sở các quyền quy định tại Điều 307, 309, 310, 311, 312, 314, 315, 316, 320, 322 Mục V Chương XXI BLTTHS năm 2015. Ngoài các hoạt động bào chữa được thực hiện trên cơ sở các quyền nêu trên, BLTTHS năm 2015 còn cho phép luật sư tiến hành hoạt động “khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Thứ hai, nghĩa vụ của luật sư – Người bào chữa. Khi tham gia bào chữa tại phiên tòa xét xử các VAHS thuộc vào các trường hợp được quy định tại Điều 76 BLTTHS năm 2015, luật sư phải thực hiện các nghĩa vụ được quy định tại khoản 2 Điều 73 BLTTHS năm 2015 như Làm sáng tỏ những tình tiết xác định bị cáo vô tội, tình tiết giảm nhẹ của bị cáo; Hỗ trợ bị cáo về mặt pháp lý; không được từ chối bào chữa nếu không vì lý do bất khả kháng; hoặc không phải do trở ngại khách quan; Tôn trọng sự thật; Không được mua chuộc; cưỡng ép hoặc xúi giục bị cáo khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; có mặt theo giấy triệu tập của tòa án; không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết khi thực hiện bào chữa; vv Những tiêu chí lựa chọn một luật sư Bào chữa Khi mời Luật sư bào chữa hình sự; nhiều người không khỏi thắc mắc rằng liệu Luật sư này có đủ giỏi; nhiều kinh nghiệm, đủ uy tín, làm việc có trách nhiệm hay không?…. chúng tôi xin chia sẻ về những lưu ý khi tìm hiểu, liên hệ Luật sư hình sự như sau Về tư cách để tham gia bào chữa vụ án hình sự, Luật sư bắt buộc phải có Thẻ Luật sư. Luật sư hoạt động với bất kì hình thức nào gồm cá nhân hoặc tổ chức hành nghề Luật sư; thì đều phải có Thẻ hành nghề. Ngoài ra, bạn cũng cần xem xét đến các yếu tố khác như mức độ uy tín của Luật sư; Luật sư hình sự giỏi, Đội nhóm của Luật sư;..vv Với sự phát triển của công nghệ; bạn có thể dễ dàng tìm một đơn vị Luật sư uy tín thông qua các trang web. Bạn cũng có thể nhờ bạn bè; người thân giới thiệu cho mình một đơn vị cung cấp dịch vụ Luật sư uy tín, chất lượng. Một điểm cần lưu ý khi liên hệ với Luật sư bào chữa vụ án hình sự; là thời điểm gặp vướng mắc pháp lý, bạn nên liên hệ với Luật sư bào chữa sớm nhất có thể để được tư vấn. Tránh việc bị xâm phạm quyền lợi và mắc phải những sai lầm không đáng có. Trên đây là một số nội dung tư vấn về Luật sư bào chữa trong vụ án hình sự. Quý khách hàng quan tâm vui lòng liên hệ LUẬT SƯ QUANG SÁNG Phone – Email
Luật sư bào chữa tiếng Anh là counsel. Luật sư bào chữa hay người bào chữa là người bảo vệ quyền, lợi ích cho người bị buộc tội trong quá trình tố tụng hình sự. Một số từ vựng liên quan đến luật sư bào chữa trong tiếng Anh Luật sư tiếng Anh là lawyer Luật sư tư vấn tiếng Anh là solicitor/advising lawyer Hệ thống pháp luật tiếng Anh là legal system Tòa án tiếng Anh là court/law court/court of law Tòa án nhân dân tiếng Anh là The People’s Tribunal Tòa án quận tiếng Anh là District Court/County Court Công tố viên/Kiểm sát viên tiếng Anh là prosecutor Quan tòa tiếng Anh là judge Bồi thẩm đoàn tiếng Anh là jury Chánh án tiếng Anh là tribunal president Thân chủ tiếng Anh là client Bị đơn tiếng Anh là defendant Nguyên đơn tiếng Anh là plaintiff Người bị hại tiếng Anh là victim Nhân chứng tiếng Anh là witness Cáo trạng tiếng Anh là indictment Đối chất tiếng Anh là cross-examination Lời khai tiếng Anh là deposition
những bài bào chữa hay nhất của luật sư